Tuesday, May 27, 2014

Nguồn Gốc Cây Methị

1. Tên cây methi: 

- Tên Ấn Độ: Mê Thi.
- Tên Phạn: Mê Thika 
- Tên Anh – Mỹ: Fenugreek, Bird’s foot 
- Tên Pháp: Funugrec 
- Tên Đức: Bockshornklee 
- Tên Tây Ban Nha: Alholva 
- Tên Ý: Fieno Greco 
- Tên Nhật: Koroha 
- Tên Hy Lạp: Trigonella foenum-graecum, thuộc họ đậu Fabaceea, 
+ “Trigonella”: có nghĩa là 3 cạnh, do hình dạng của hoa. 
+ “Foenum-graecum”: tiếng latinh có nghĩa là rơm Hy lạp: cây đã được dùng để trộn thêm các rơm rạ có phẩm chất kém để tạo mùi thơm. Trước đây tại Hy lạp, fenugreek được trộn vào các rơm rạ bị mốc hay bị hư hỏng do côn trùng phá hoại, giúp rơm trở thành dễ ăn hơn, và hơn nữa trong thiên nhiên trâu bò và ngựa khi đau ốm chỉ chịu ăn me thi.


2. Lịch sử vê cây methi: 
- Mê thi được xem là một trong những cây đầu tiên được nhân loại trồng tại vùng thung lũng sông Nile từ 1000 năm truớc Công Nguyên 
- Các văn bản tìm được trong các ngôi cổ mộ Ai cập đã mô tả cách nấu nướng mê thi khi dùng làm thực phẩm và cách chế biến cây để làm thuốc (trị nóng sốt). Hạt mê thi khô đã được tìm thấy trong mộ của Tutankhamen. Người Ai cập dùng cây làm một trong các hợp chất để xông hương và để ướp xác 
- Hạt mê thi cháy khô tìm được tại Tell Halal (Iraq) được định bằng cacbon phóng xạ cho thấy niên đại khoảng 4000 năm (trước Công Nguyên). 
- Trong lịch sử của người Do Thái, mê thi như là một võ khí chống ngoại xâm: Năm 66-70 (sau Công nguyên,) Hoàng đế La Mã Titus Flavius Vespasian bao vây thành Jerusalem và ra lệnh cho quân sĩ san bằng bức tường thành. Phương thức phòng thủ của dân Jerusalem là đổ nước sôi hay dầu sôi vào quân xâm lấn dùng thang trèo lên mặt thành và theo sử gia Flavius Josephus thì người Do thái đã thêm dầu Mê Thi vào nước sôi để gây tăng thêm sư trơn trợt cho quân La Mã. 
- Trung Âu: Mê thi được các tu sĩ dòng Benedictins đưa về Trung Âu từ thế kỷ IX. 
- Trung Hoa: Mê thi được du nhập vào thời nhà Tống (khoảng năm 1057). 

3. Đặc tính thực vật của cây methi 
- Chu kỳ sinh trưởng: Mê Thi thuộc loại có chu kỳ sống ngắn, có thể thu hoạch sau 3-4 tháng gieo trồng và mỗi năm có thể trồng xoay vòng đến 3 lứa. 
- Cây thuộc loại thảo hằng niên, có thân tròn không lông, mọc thẳng đứng,rễ phát triển. 
- Chiều cao: 60 – 80cm. 
- Lá: mọc so le, có mang 3 lá chét (lá phụ) xoan ngược, cuống ngắn 4 – 6 mm, dài 1.5 – 2 cm, rộng 0.5 – 1 cm, mép lá có răng cưa ở phân nửa phần trên, phiến có 4 đôi gân phụ. 
- Hoa: màu vàng nhạt hay trắng, mọc ở nách lá, đơn độc hay từng đôi. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa. 
- Cây trổ hoa vào các tháng 4-6 và ra quả trong các tháng 7-8 
- Quả: hình trụ thẳng, hơi cong, dài 10-12 cm, rộng 4-5 mm, có mỏ nhọn ở đầu, chứa 10 đến 20 hạt. 
- Hạt: màu nâu sáng, hay vàng-nâu, hình thoi, dẹp, rất cứng (3×4 mm), nhiều cạnh, có mùi thơm 
- Các nước xuất cảng Mê Thi hiện nay là: Ấn độ, Pháp, Li Băng, Ai Cập và Argentina. 

4. Thành phần hóa học của hạt Methi: 
- Chất nhày: 2.5 – 45% (gồm các mannogalactans) 
- Chất đạm: 25 – 30% (các amino acids như choline-4-hydro xyisoleucine, lysine, tryptophan, histidine, arginine, cystine và tyrosine). 
- Các saponins loại steroid: 1.2-1.5% 
- Các loại sterols: 65% 
- Tinh dầu dễ bay hơi: 0.01% .

No comments:

Post a Comment